THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên luận án: Nghiên cứu khả năng khí hóa than của hệ vi sinh vật từ bể than Sông Hồng
Ngành: Công nghệ sinh học
Mã số: 9420201
Nghiên cứu sinh: Hoàng Lan
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Lan Hương
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
TÓM TẮT KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Các đặc tính địa chất và hóa địa thủy văn của bể than Sông Hồng tại khu vực nghiên cứu khẳng định tính khả dụng sinh học để khí hóa than ngầm bằng vi sinh vật: tồn tại 05 vỉa than tương ứng 05 vị trí lấy mẫu (C1 đến C5; chiều sâu vỉa từ 396,04 m đến 853,82 m) có bề dày vỉa khoảng từ 3-5 m; các vỉa than có thành phần chất bốc cao (40,29-47,19%); kích thước lỗ rỗng phù hợp cho vi sinh vật xâm nhập trong than (> 400 nm, chiếm 11,98-36,08% tổng thể tích lỗ) cùng tính liên thông lỗ rỗng tốt; nước ngầm liên kết bể than mang đặc trưng của một bể than có khả năng sinh khí (hàm lượng natri (349,6 mg/L) và bicacbonat cao (122 mg/L), hàm lượng canxi (24,45 mg/L) và magiê (24,24 mg/L) thấp cùng quá trình khử sulphate.
2. Đã chứng minh được sự tồn tại của quần xã vi sinh vật bản địa có khả năng chuyển hóa than thành khí trong bể than sông Hồng tại khu vực nghiên cứu. Ngành Proteobacteria chiếm ưu thế trong các vỉa than, với chỉ phổ biến nhất thuộc Burkholderia-Caballeronia-Paraburkholderia. Các ngành Proteobacteria – Archaea Firmicutes – Actinobacteria – Bacteroidete là các ngành phổ biến theo mức độ giảm dần trong mẫu nước ngầm liên kết bể than, với chi phổ biến nhất là Shewanella. Con đường chuyển hóa sinh khí methane dinh dưỡng methyl với nhóm cổ khuẩn Methanolobus chiếm ưu thế. Quần xã vi sinh vật bản địa đáp ứng với việc bổ sung dinh dưỡng, cho hiệu suất chuyển hóa than thành khí dao động từ 1,14 đến 4,96 mL CH4/g than.
3. Bằng các nghiên cứu đã nêu trong Luận án, đã xác định được tính khả thi và phạm vi áp dụng phù hợp của giải pháp khí hóa sinh học than ngầm trong bể than Sông Hồng tại vùng nghiên cứu là các vỉa than có chiều sâu vỉa tới 745,25 m.